Phố núi
Nơi giao lưu, tản mạn... cùng bạn hữu yêu văn học nghệ thuật gần xa.
Không bao giờ quá sớm để kết bạn & quá muộn để yêu- Sandy Wilson

Lời ngỏ

Tản mạn giọng nói người Việt- ST

TẢN MẠN GIỌNG NÓI CỦA NGƯỜI VIỆT TỪ BẮC VÀO NAM

Giọng Miền Bắc:

     Nếu lấy Huế làm trung điểm của cán cân, ta thấy có một sự thay đổi trong giọng nói của tiếng Việt chúng ta từ Bắc vô Nam. Sự biến chuyển này ở các vùng liền nhau là tiệm tiến một cách có thể khó nhận ra. Tuy vậy, giọng nói của chúng ta có thể được phân chia thành ba miền rõ rệt: giọng Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam mà chúng ta thường gọi là giọng bắc, giọng trung, và giọng nam. Miền Bắc nói chung từ cực bắc đến tiếp giáp Miền Trung có một giọng nói thanh tao. Một tài liệu cổ của một quan lại Trung quốc báo cáo về cho triều đình Trung quốc đã mô tả rằng tiếng Việt nghe ríu rít như chim. Ông quan này đã ký âm một số từ Việt bằng chữ Trung hoa mà khi ta đọc lại theo âm Hán Việt thì không còn biết được âm thật của tiếng ta vào thời đó như thế nào nữa. Ví dụ, trong văn kiện này có từ Hán Việt đọc là đà bị để chỉ người vợ. Giọng nói nghe ríu rít như chim này nhất định là giọng Miền Bắc nước ta vì vào thời đó, Miền Trung và Miền Nam chưa thuộc về nước Việt.

      Thế nhưng, ngay trong phạm vi Miền Bắc, giọng nói cũng thay đổi từ vùng này sang vùng khác. Khởi đầu từ cực bắc với Sơn tây, Lạng sơn, Cao bằng vv., giọng miền bắc có một chút “ngọng ngịu” và phát âm [L] và [N] đều thành [N], vì dụ lẫn lộn thành nẫn nộn. Giọng Hải phòng và Hà nội vẫn có một chút khác biệt, vì nghe như giọng Hải phòng nặng hơn, tuy có người cho rằng giọng Hà nội nghe có phần điệu hơn. Vòng qua Bùi chu, Phát diệm, Nam định, giọng Bắc đã nghe có âm hưởng nặng thêm chút nữa.

      Ưu điểm của giọng bắc là phân biệt rõ ràng các phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG] và đầu [D] và [GI]. Người Việt chúng ta phải biết ơn những người đã chế ra chữ quốc ngữ. Thật khó mà diễn tả điều chúng ta muốn nói nếu tiếng ta được ký âm bằng chữ Nôm hay lối chữ tượng hình nào khác. Người Bắc không bao giờ lẫn lộn giữa cắc (bạc cắc) và cắt (cắt thịt), khăn (cái khăn) và khăng (khăng khăng), giây (giây phút) và dây (dây dưa). Có ý kiến cho rằng “thời chưa có quốc ngữ, phân biệt âm cuối [T] và [C] không được nhấn mạnh, tại phần lớn nước Việt.” Phân biệt hay không phân biệt theo tôi là tại tiếng chứ không tại chữ, như Trần Văn Mầu viết “học tiếng, chứ không học chữ.” Tôi nghĩ là giọng Miền Bắc đã từ lâu phân biệt rõ rệt các âm như vừa trình bày, còn các miền khác cho đến nay đã có chữ quốc ngữ vẫn không được “nhấn mạnh.” Do đó, nếu nói các miền còn lại giọng nói không phân biệt các âm cuối [C] và [T] theo ký âm chữ quốc ngữ hiện thời thì phát biểu này không sai. Có hay không có cách ký âm gọi là quốc ngữ thì giọng nói của ba miền đất nước chúng ta vẫn như vậy. Một điều chắc chắn nữa, các từ với phụ âm cuối là [C] hay [T] theo quốc ngữ hiện thời, dù cách đọc khác biệt của các miền đất nước vẫn được ký âm chỉ bằng một cách viết chữ Nôm mà thôi, không phải một cho giọng bắc và một cho giọng nam. Nghĩa là, một âm được ký bằng chữ Nôm vẫn được đọc các cách khác nhau nếu có giữa các miền khác nhau. Nguyễn Du chỉ ký âm một cách duy nhất câu thơ được ký âm lại bằng chữ quốc ngữ là Trời xanh quen thói má hồng đánh ghenđề được giọng bắc đọc là Chời (Giời) xanh quen thói mà hồng đánh ghentrong khi giọng Huế đọc là Trời xanh queng thoái má hồng đánh gheng.

      Về âm sắc, giọng Bắc phân biệt các dấu hỏi, ngã. Điều lạ là, Alexandre de Rhodes và các giáo sĩ thừa sai hồi đó đến trước hết ở Đàng Trong tại sao lại biết được sự phân biệt hỏi, ngã của giọng Miền Bắc. Cũng nên ghi nhận là biểu tượng dấu ngã bây giờ lúc ban đầu không phải chỉ để biểu hiện cách phát âm từ thấp vút lên cao của dấu ngã mà còn để thay thế âm cuối [NG]. Trong cuốn Phép giảng tám ngày tôi còn nhớ đã viết, “Tôi càu cũ Đức Chúa Blời….” (Tôi cầu cùng Đức Chúa Trời). Phải chăng điều này cho thấy đã có sự cộng tác của những người nói giọng bắc trong việc hình thành chữ quốc ngữ bây giờ.

      Nhược điểm của giọng bắc là không phân biệt [CH] và [TR] nói thành [CH], [S] và [X] nói thành [X], ví dụ Châu (châu phê) và trâu (con trâu) nói giống nhau thànhchâu; sanh (sanh sản) và xanh (màu xanh) đều nói thành xanh.


Tản mạn giọng nói người Việt

Giọng Miền Trung:

      Bước vào Thanh Nghệ Tĩnh, giọng bắc gần như đột nhiên chỉ còn âm hưởng. Người vủng này nói nghe mai mái vẫn còn âm điệu của giọng bắc, nhưng giọng nói nặng hơn nhiều và đã xuất hiện một âm điệu khắc hẵn âm điệu Miền Bắc, và nhiều từ Miền Bắc không có. Cách riêng hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh, giọng nặng cho đến nổi nhiều người không quen nghe, không thể hiểu được, kể cả người thuộc vùng Bình Trị Thiên với giọng mà người khác cho là nặng. Đến Quảng bình, âm hưởng giọng bắc hoàn toàn biến mất. Giọng nói nhẹ lên nhiều so với giọng Nghệ Tĩnh, nhưng vẫn còn nặng nếu chỉ so sánh giữa ba tỉnh Bình Trị Thiên. Giọng Bình Trị Thiên nhẹ hẵn đi khi đến Thừa thiên, cao bỗng và dịu dàng theo một cách riêng.

      Đặc điểm của giọng Thanh Nghệ Tĩnh Bình Trị là vẫn còn phân biệt phụ âm cuối [C] và [T], [N] và [NG], nhưng thêm vào đó còn phân biệt được [CH] và [TR], [S] và [X] mà giọng bắc lẫn lộn. Ngược lại, người vùng này hoàn toàn không phân biệt phụ âm đầu [D], [GI] và [NH]; họ chỉ nói toàn phụ âm [GI] mà thôi. Họ nói dà, già, và nhà đều thành một âm già. Vùng Thừa thiên phân biệt được [CH] và [TR], [S] và [X], nhưng phụ âm cuối [C] và [T] đều nói thành [C], [N] và [NG] đều thành [NG], ví dụ cắc và cắt đều nói cắc, man (di) và mang (vác) đều thành mang. Phụ âm đầu [D], [GI] và [NH] đều nói là [GI]. Người Thừa Thiên còn phát âm [OI] thành [OAI], ví dụ nói (năng) thành noái (năng).

      Bước qua Đèo Hải vân, giọng tiếng Việt chúng ta đột nhiên khác hẵn bắt đầu từ Quảng nam. Nếu giọng từ Thanh hóa đến Thừa thiên có vẻ bình bình thì giọng từ Quảng nam trở vào cho đến Miền Nam lại bắt đầu lên xuống như giọng bắc. Bắt đầu từ Quảng nam, giọng nói giữ lại việc phân biệt và không phân biệt các phụ âm như giọng Thừa thiên, ngoại trừ [OI] thành [OAI]. [D] và [GI] đều như là [GI], ví như dây và giây đều phát âm là giây, nhưng vùng này đã phân biệt phụ âm đầu [GI] và [NH] như già và nhà.

      Vùng Nam Ngãi Bình Phú lại có các cách phát âm khác nhau. Nam Ngãi không nói là kéo (dây) mà nói rị, không nói hộc (bàn, tủ) mà nói thọa, không nói (ghế)đẩu mà nói là (ghế) giuông. Nam Ngãi phát âm [AM] nghe như [OAM], ví dụ, làmnghe như loàm; [Ă] nghe như [E], ví dụ năng nghe như neng, cắc hay cắt đều nghe như kéc; [AO] nghe như [ÔU], ví dụ gạo nghe như gộu vv.

      Bình Phú không nói người ta (nói rằng) mà nói nẩu (nói rềng). Âm [ĂN] hay [EN] nghe như [ÊNG] với một chút giọng mũi, ví dụ ăn nghe như êng; đèn hay đằngđều nghe như đềng với chút âm giọng mũi.

      Một đặc điểm chung của khu vực Nam Ngãi Bình Phú này là sự xuất hiện của việc ghép một đại từ + ấy thành chính đại từ đó với dấu hỏi bất luận nguyên thủy với dấu gì, ví dụ anh ấy thành ảnh, cậu ấy thành cẩu, mợ ấy thành mở vv, ngoại trừ hai từ bác ấy, chú ấy có lẽ vì không thuận miệng. Đặc điểm khác là cách phát âm phụ âm đầu [V] thành [GI], ví dụ vuông thành giuông, đi vô thành đi giô, mà từ Miền Bắc vào đến Thừa thiên không có.

      Giọng Miền Trung không còn phân biệt dấu hỏi dấu ngã nữa. Cả hai dấu này đều được phát âm nửa vời, không hỏi không ngã, có lúc trầm xuống gần với dấu nặng.

Giọng Miền Nam:

      Miền Nam kéo dài chất giọng của giọng từ Quảng nam đổ vào nhưng không giữ lại cách cách phát âm địa phương. Giọng nam mềm mại hơn giọng của phần đất phía nam Miền Trung này. Người Miền Nam không phân biệt phụ âm cuối [C] và [T] nói thành [C], [N] và [NG] nói thành [NG]. Phụ âm đầu [D] và [GI] đều nói là [GI]. Giọng Miền Nam lại giống giọng Miền Bắc trong việc không phân biệt [CH] và [TR] nói thành [CH], [S] và [X] nói thành [X]. Đặc điểm là miền này nói các phụ âm cuối dài như [ICH], [INH] thay cho phụ âm ngằn [IT] và [IN], ví dụ, con vịch thay vì con vịt, dây nịch thay vì dây nịt, niềm tinh thay vì niềm tin. Âm đầu [R] thường phát âm là [GI], ví dụ, đi ra nói là đi gia; có vùng thành [G], ví dụ cá rô thành cá gô. Nhiều vùng không nói được âm đầu [H] mà biến thành gần như [GU], ví dụ Huếthành Guế.

      Có một số từ Miền Nam dùng với nghĩa khác của hai miền kia. Ví dụ, mần ở Miền Trung có nghĩa là làm, nhưng chỉ có nghĩa là làm việc ở Miền Nam. Ví dụ, khi chúng ta nghe nói, “Sao còn chưa đi mần?” thì có nghĩa là “Sao vẫn còn chưa đi làm công việc của mình. “Ổng mần ăn lớn lắm” có mhĩa là “Ông ấy làm ăn lớn lắm.” Giọng nam cũng kết hợp đại từ + ấy thành chính đại từ ấy với dấu hỏi cùng một qui luật như vùng Nam Ngãi Bình Phú. Giọng Miền Nam không phân biệt hỏi ngã cũng như giọng Miền Trung.

Đặt vấn đề:

      Tôi xin đặt mấy vấn đề sau phần trình bày nhàm chán bên trên:

      Thứ nhất, vẫn có tin tưởng rằng người Miền Trung và Miền Nam nói chung đều là con cháu của tổ tiên di cư từ Miền Bắc vào, khởi đầu từ biến cố Nguyễn Hoàng (Mậu Ngọ—1558 đời vua Lê Anh Tông)và các đợt di cư vì các biến cố khác sau đó. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đất nước ta thời nhà Trần chỉ mới đến hết Nghệ an, tiếp giáp với Chiêm thành về hướng nam (sđd. bản đồ tr. 127). Chúa Nguyễn Hoàng khi vào Ái tử chỉ cai quản phần đất Thuận hóa, cho đến năm Canh Ngọ 1570 mới được Chúa Trịnh giao thêm đất Quảng nam tiếp giáp Chiêm Thành. Năm Tân Hợi 1611, Nguyễn Hoàng đánh chiếm Chiêm Thành lập Phú yên. Các Chúa Nguyễn kế tiếp đánh chiếm hết đất Chiêm Thành vào năm Đinh Sửu 1697. Quan niệm người Bình Trị Thiên là con cháu mà tổ tiên đã di cư theo Nguyễn Hoàng được nhiều người mặc nhiên công nhận, như Trần Văn Mầu trong bài Giọng Huế—Giọng Quảng trị viết, “tổ tiên chúng tôi cùng Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam lên bờ cũng tại vùng Ái tử Quảng trị hiện nay!”

      Đi theo Nguyễn Hoàng chắc chắn là người Miền Bắc và nói giọng bắc. Nếu cả một vùng bao la, mọi người đều đã từ Miền Bắc di cư vào thì điều gì đã làm cho họ biến đổi giọng nói cách khác thường như vậy khi vượt qua Hoành sơn nhất đái tức là Đèo Ngang thuộc Quảng bình? Vùng đất thuộc Chúa Nguyễn lúc bấy giờ chưa có người Việt ở hay chỉ có một số ít?

      Tôi cho rằng không; vùng này đã có người Việt ở từ trước mà còn là đông hơn số người từ Miền Bắc di cư vào. Quan sát hiện tượng người Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, chúng ta có thế nhận xét: (1) Nơi nào số đông người Miền Bắc qui tụ vào một nơi như Hố nai, Gia kiệm, họ vẫn nói giọng bắc rõ rệt đến mấy đời sau vẫn còn; (2) Nếu chỉ một số rất ít, ví dụ một gia đình, vây quanh bởi số đông người nói giọng nam thì có thay đổi trong giọng nói, ngay từ đời thứ nhất đã lai giọng. Một hai đời sau, con cháu họ hoàn toàn không nói giọng bắc nữa. Một làng chài lưới ở đảo Tri thủy, Phan rang, phía bắc quê hương cố Thổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vốn từ Quảng bình “chạy giặc Văn thân” vào, vẫn nói giọng Quảng bình của họ mà không lai giọng Phan rang vì toàn làng đều nói một giọng. Thế nhưng, lớp trẻ khi tôi được may mắn tiếp xúc vào những năm 1960 đã bắt đầu lai giọng Phan rang vì họ đã bắt đầu tiếp xúc ra ngoài (đi học, đi làm vv).

      Từ nhận xét thô thiển đó, ta có thể suy ra vùng từ Thanh hóa đổ vào cho hết phần đất thuộc Chúa Nguyễn, nước ta đã có người Việt ở đó, mà là đa số. Đa số này có giọng nói riêng biệt và từ vựng riêng biệt ngoài số tiếng Việt chung (Trong số từ vựng riêng biệt đó, có các từ mà tôi tạm gọi là tiếng Quảng trị chứ không phải vay mượn từ ai khác nếu không nói là đã cho người khác vay mượn). Và do đó không phải tất cả con cháu Bình Trị Thiên đều có tổ tiên đã theo Chúa Nguyễn Hoàng di cư vào. Vậy, những người Việt nguyên thủy ở vùng này, họ là ai? Và họ liên hệ thế nào với người nói giọng bắc để cùng có chung một tiếng Việt nhưng với giọng nói khác?

      Thứ hai, điều gì đã làm cho người Việt nguyên thủy từ Thanh hóa đổ vào nói tiếng Việt với giọng khác với giọng bắc, và khác nhau rõ rệt giữa các khu vực thuộc vùng này với nhau? Như nhận xét thô thiển về giọng bắc ở mục bên trên cho thấy: Miền Bắc với giọng bắc dù có khác biệt đôi chút vẫn giữ âm hưởng giọng bắc. Miền Trung trái lại, sự khác biệt giữa các khu vực quá rõ rệt đến nổi có thể chia thành các nhóm khác nhau gần như bước nhảy vọt không có chuyển tiếp.

      Thứ ba, giọng Miền Nam có phải là pha trộn giữa giọng bắc và giọng trung từ Quảng nam đổ vào không? Người Miền Nam hiện nay cho tất cả những ai không nói giọng nam đều là người “Guế” (người Huế). Cách phát âm của giọng nam cơ bản giống giọng Quảng nam đổ vào. Điều gì đã hình thành giọng nói đó?

KẾT:

      Các câu hỏi mà tôi nêu ra trên được ông cha chúng ta đi trước trả lời cách đơn giản là giọng nói khác đi là do thổ nhưỡng. Nói cách khác, cha ông chúng ta trả lời người Miền Bắc khi đến Thanh hóa sở dĩ nói giọng Thanh hóa là vì họ uống nước tại đất Thanh hóa; người nơi khác đến Quảng nam nói giọng Quảng nam vì đã uống nước đất Quảng nam! Đến bây giờ thì câu trả lời như vậy không thể nào trả lời được nữa. Người Việt di cư đến California đâu có nói giọng California mà vẫn nói giọng của gia đình và nhất là giọng của đa số người Việt sinh sống tại vùng họ đang cư ngụ.

      Tôi cho rằng biến chuyển giọng nói của tiếng Việt chúng ta còn có thể được dùng cách sâu xa để giải thích nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Chúng ta từ đâu mà đến hay vốn đã có ở đó. Như ngay từ đầu tôi đã thú nhận sự dốt nát của tôi về khoa học này, tôi xin thú nhận lại sự dốt nát của tôi ở đây. Bài này chẳng qua cũng chỉ là lời quê góp nhặt dông dài. Có điều tôi không biết liệu có mua vui được cho ai giây phút nào hay không, chứ không dám nói như thi hào Tiên Điền cũng được một vài trống canh vì phận tôi không dám tham lam như thế.


     Relax chút với bài thơ vui về sự khác nhau giữa cách nói của người Miền Bắc và người Miền Nam nhé:

Tản mạn giọng nói người Việt

LỜI BẮC, Ý NAM

Bắc bảo kỳ, Nam kêu cọ
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi! Bắc quở gầy , Nam than ốm
Bắc cáo ốm, Nam khai bịnh
Bắc định đến muộn , Nam liền la trễ
Nam mần sơ sơ, Bắc làm lấy lệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc vạc tre, Bắc kê lều chõng
Bắc nói trổng thế thôi, Nam bâng quơ vậy đó
Bắc đan cái rọ, Nam làm giỏ tre,
Nam không nghe nói dai, Bắc chẳng mê lải nhải
Nam cãi bai bải, Bắc lý sự ào ào
Bắc vào ô tô, Nam vô xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở dù, Bắc lại xoè ô
Điên rồ Nam đi trốn, nguy khốn Bắc lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc từ từ, Bắc khuyên gượm lại
Bắc là quá dại, Nam thì ngu ghê
Nam Sợ ghê, Bắc hãi quá
Nam thưa tía má, Bắc bẩm thầy u
Nam nhủ ưng ghê, Bắc mê hài lòng
Nam chối lòng vòng, Bắc bảo dối quanh
Nhanh nhanh Nam bẻ bắp, hấp tấp Bắc vặt ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ bông bụp, Bắc vuốt tường vi
Nam nói: mầy đi! Bắc hô: cút xéo.
Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc quậy sướng phê, Nam rên đã quá
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc vua bia bọt, Nam chúa la-de
Bắc khoe bùi bùi lạc rang, Nam thơm thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét “hổng chịu đèn”, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua”, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Đến khi Nam địt, Bắc hô đánh rắm
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa: “Cái Lan xinh cực!”
Nam trầm trồ: “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…

                          ST

COMMENTS G+/FB

0 Comment:

CÓ THỂ BẠN SẼ THÍCH:

  • Mục lục:
  • Theo thể loại
  • Theo tác giả
  • Theo thời gian